NCS- ThS Hồ Minh Châu
Bản đồ 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh Việt Nam
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, hình thành nên một quá trình phát triển liên tục và bền bỉ. Trong buổi đầu lịch sử, biên giới nước ta từng mở rộng trên một không gian địa lý rộng lớn, kéo dài từ vùng Tượng Quận, Quế Lâm (giáp với nước Tây Thục) qua Nam Hải, Quảng Đông (nay thuộc lãnh thổ Trung Quốc). Vị trí nằm ở phía Nam sông Trường Giang (Dương Tử Giang), nơi từng là địa bàn cư trú của các quốc gia cổ Nam Việt và Âu Lạc, gắn liền với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, kéo dài xuống Giao Chỉ, Cửu Chân, và ngày nay đến vùng cực Nam hiện nay gồm Cà Mau, Hà Tiên, Phú Quốc và An Giang.
Do phạm vi lịch sử của dân tộc trải dài trên cả trục thời gian lẫn không gian, việc nghiên cứu và truyền đạt tri thức lịch sử cho các thế hệ sau gặp không ít thách thức. Vì vậy, nếu tiếp cận lịch sử Việt Nam thông qua các “lát cắt” cụ thể về thời gian và không gian, chúng ta sẽ có cái nhìn hệ thống, dễ hình dung và sâu sắc hơn về tiến trình hình thành và phát triển của quốc gia, dân tộc.
Trong nghiên cứu lịch sử, hai yếu tố quan trọng nhất trong một hay nhiều sự kiện lịch sử được mô tả bằng những lát cắt của thời gian và không gian, từ thời thượng cổ cho đến thời hiện tại; theo quy luật này việc sắp xếp thời gian trên trục thời gian dễ làm cho người đọc có thể nhớ được những thời điểm quan trọng, còn không gian phải nhờ đến hình ảnh trên bản đồ nhưng được sắp đặt hợp lý để người đọc dễ hình dung.
Trong sử họ Hồ cũng vậy, một số bài viết không dựa vào diễn tiến của thời gian và không gian nên sử liệu thiếu chính xác, chẳng hạn, việc xác định thời điểm Trạng nguyên Hồ Hưng Dật được cử sang làm Thái thú Châu Diễn. Dù có nhiều quan điểm khác nhau từ các tác giả trước, nhưng khi đối chiếu theo tiến trình lịch sử, sự kiện cần được xem xét cụ thể trên lát cắt của thời gian và nền của không gian thế kỷ X. Qua nghiên cứu sâu bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, thời điểm hợp lý nhất để xác định Trạng nguyên Hồ Hưng Dật sang Tĩnh Hải Quân nhận chức Thái thú Châu Diễn, chỉ có thể là sau năm 923, tức là sau khi Khúc Thừa Mỹ bị Nam Hán đánh bại. Lý Khắc Chính được cử sang làm Tiết Độ sứ Tĩnh Hải quân từ 923 đến 931, Tĩnh Hải Quân một lần nữa bị Nam Hán thôn tính tạm thời, Hồ Hưng Dật sang giai đoạn này. Đến khi Dương Đình Nghệ nổi lên đánh đuổi Lý Khắc Chính (931–937), Hồ Hưng Dật rời chức quan và trở về làm trại chủ hương Bào Đột. Mốc thời gian này được xem là phù hợp nhất với các dữ kiện lịch sử hiện có. Các giả thuyết khác của các nhà nghiên cứu trước đây đều không có cơ sở vì lệch thời gian hoặc lệch không gian của lịch sử.
Tương tự, việc xác định Hồ Cao hay Hồ Hồng là anh hay em có thể tiến hành bằng cách phân tích các lát cắt thời gian và không gian của thế kỷ XIV. Thông qua việc đối chiếu thời điểm họ xuất hiện trong các sự kiện lịch sử, vai trò họ đảm nhiệm cũng như phạm vi địa vực mà mỗi người quản lý, ta có thể suy luận vị thế của từng nhân vật trong dòng tộc. Cách tiếp cận dựa trên bối cảnh lịch sử cụ thể qua các lát cắt một số vấn đề còn tranh luận về họ Hồ giúp đưa ra đánh giá khách quan, đáng tin cậy hơn so với việc chỉ dựa vào truyền phả vốn có nhiều dị bản và sai lệch qua thời gian.
Để người đọc dễ hình dung, bài viết trình bày một phương pháp sắp xếp các sự kiện lịch sử Việt Nam, đối chứng với lịch sử Trung Hoa theo các lát cắt trục thời gian và không gian, dựa trên hệ thống tư liệu nghiên cứu tổng hợp của nhiều học giả từ thời sơ sử đến thời điểm hiện tại (tháng 6/2025), sau sáp nhâp 3321 phường, xã và 34 tỉnh, thành.
1. Thời gian
1. Trục thời gian: được biểu diễn trên hình I.1 với hai lưu ý sau:

Ghi chú: Trước Tây lịch hoặc trước Công nguyên được ký hiệu BC (Before Chris). Không có năm mang số không nghĩa là kế tiếp 1BC là 1
2. Biểu diễn nhiều sự kiện trên trục thời gian
Biểu diễn các giai đoạn trong lịch sử Việt Nam (LSVN) trên hình I.2

Các danh xưng trong lịch sử Việt Nam được mô tả hình I.3. Danh xưng được sắp xếp theo từng triều đại.

Danh xưng Xích Quỷ thời Tiền sử còn nhiều tranh cãi. Xem lại Đại Việt sử ký và Đại Việt sử ký toàn thư ta nhận thấy điều tranh cải hoàn toàn có lý.
3. Biểu diễn một sự kiện trên trục thời gian
Dùng cách biểu diễn này để so sánh các sự kiện cùng tính chất trên trục thời gian (hình I.4) hoặc mô tả nhiều sự kiện diễn ra đồng thời (hình I.5)

Đại Việt sử ký (ĐVSK) ban đầu được Lê Văn Hưu biên soạn từ đầu thời Triệu Đà đến cuối nhà Lý, hoàn thành năm 1272.
ĐVSK được Phan Phu Tiên biên soạn thêm thời nhà Trần và cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Đại Việt sử ký toàn thư (TT) được Ngô Sĩ Liên biên soạn thêm thời Hồng Bàng 2879BC đến 207BC. Đây là điều tranh cải về nhà nước Xích Quỷ như đã nêu.
Danh xưng ĐẠI VIỆT được sử dụng từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn: Nhà Lý, Trần: 1054 đến 1400; Nhà Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn:1428 đến 1804; Nhà Nguyễn:1812 đến 1838.
Thời Lê Trung Hưng, Nhà Mạc, chúa Trinh, Nguyễn, Nhà Tây Sơn, Nhà Nguyễn đều dùng danh xưng Đại Việt. Sơ đồ mô tả các thế lực đồng thời trên lãnh thổ Đại Việt (hình I.6).

Thời nhà Nguyễn còn có giai đoạn một đất nước có hai danh xưng: Đại Nam và Liên Bang Đông Dương

Từ năm 1945 đến 1975 có giai đoạn có đến 3 danh xưng

*CPLT CHMNVN: Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
4. Biểu diễn thời kỳ Bắc thuộc

5. Biểu diễn các triều đại thời kỳ độc lập
Các triều đại đầu: Ngô, Đinh, Tiền Lê có thời gian tồn tại ngắn, một hai đời sau kế tiếp không giữ ngôi được lâu. Các triều đại thịnh trị kéo dài hàng trăm năm được mô tả trên các sơ đồ sau, bắt đầu từ nhà Lý.

Kế tiếp là nhà Trần, Hậu Lê và nhà Nguyễn:




2. Không gian
Lãnh thổ Việt Nam thay đổi theo từng thời kỳ lịch sử khác nhau.
Nhà nước Lĩnh Nam bao gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, miền Bắc và bắc miền Trung của Việt Nam ngày nay (hình II.1)
Dưới thời các chúa Nguyễn, lãnh thổ Việt Nam kéo dài đến mũi Cà Mau (hình II.2).

Vấn đề khó là việc biến động không gian lịch sử và sự thay đổi tên gọi các địa danh lịch sử vào thời điểm xảy ra sự biến so với tên gọi hiện tại. Thêm nữa nhà nước ta có quá nhiều tỉnh thành và có thể thêm hoặc bớt nhiều tỉnh thành nữa trong tương lai. Không có cách gì khác là phải có được bản đồ hành chính bên cạnh khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam đồng thời cũng dùng đến bản đồ Trung Quốc khi cần.
Tuy vậy trong đầu mỗi người Việt chắc chắn phải hình dung được các tỉnh duyên hải miền trung vì được phân bố tuần tự dọc theo bờ biển, bắt đầu là Thanh Hóa, Nghệ An... Ninh Thuận, Bình Thuận (nay là Lâm Đồng); và 4 tỉnh Tây nguyên, từ Kon Tum xuống Đắc Nông (nay là Lâm Đồng). Miền Nam dễ hình nhất là Nam kỳ lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Còn miền Bắc thì nhiều tỉnh, để có thể dễ nhớ thì gọi là vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc; tên các tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Hòa Bình, Yên Bái, Phú Thọ, Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Bắc Giang, Quảng Yên, Hải Ninh (Quảng Ninh), Sơn Tây, Vĩnh Yên, Phúc Yên (Vĩnh Phúc), Hà Tây… (Lịch sử, địa lý cấp 1-2, hệ 10 miền Bắc).
Ngày nay nhờ công nghệ nên việc có được một bản đồ là không khó nhưng không phải lúc nào cũng cần đến nó nếu là những vấn đề địa lý sơ đẳng mà không phải ai cũng biết. Do đó, một chút kiến thức về địa lý là điều cần thiết cho những người đọc lịch sử và phả họ.
Trở lại vấn đề lịch sử, cần thiết phải có bản đồ theo lát cắt thời gian và không gian để thể hiện địa chỉ xảy ra sự biến, bên cạnh đó có thể dùng cách sắp đặt các bản đồ theo thời điểm khác nhau để so sánh. Ví dụ như, mô tả cuộc khởi nghĩa, sử dụng các bản đồ ghép liền nhau thể hiện các bước phát triển của cuộc kháng chiến.


Cuộc chiến giữa vua Lê - chúa Trịnh với nhà Mạc và việc cát cứ của chúa Nguyễn trên hình II.5

Diễn biến cuộc xâm lăng của Pháp được mô tả trên hình II.7

Chia cắt lãnh thổ thởi Pháp thuộc mô tả trên hình II.8

Sáp nhập vào lãnh thổ thời Pháp thuộc gồm phần đất Lai Châu, Lào Cai, các tỉnh Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum.

Theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII (ban hành tháng 4/2025), Ban Chấp hành Trung ương đã thống nhất sáp nhập 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh, thành phố trước đây thành 34 tỉnh, thành phố (28 tỉnh và 6 thành phố trực thuộc Trung ương), chính thức có hiệu lực từ ngày 12/6/2025 đã được cập nhật trên phương tiện thông tin đại chúng theo bản đồ sau:

Thông qua các lát cắt vừa trình bày ở phần II, người đọc dễ hình dung không gian lịch sử mà ta cần quan tâm. Như đã nói ở trên, khó có thể nhớ hết 34 tỉnh, thành và 3321 phường, xã địa của nước ta hiện nay, đặc biệt là phường, xã, do bỏ cấp huyện. Để khắc họa trong bộ nhớ mỗi người vị trí địa lý thay đổi, cần phải có bản đồ hành chính Việt Nam đặt ở những vị trí nhiều người qua lại như cơ sở công cộng, trong phòng học, hoặc trong gia đình để những hình ảnh này tự động đi vào tiềm thức của từng người.
Bên cạnh đó, đọc lịch sử Việt cũng dính dáng đến những địa danh của quốc gia láng giềng phương bắc nên cũng phải dùng song song bản đồ, lịch sử Trung Quốc để làm điểm tựa so sánh. Mặc dù họ có diện tích rộng lớn, ngày nay số tỉnh thành cũng ngang ngửa với Việt Nam (mới) và tên gọi cũng khá dễ nhớ.
Với Trung Quốc, sử dụng hệ quy chiếu hình học, hãy tưởng tượng có một đường thẳng từ Bắc Kinh nối với điểm giữa đảo Hải Nam. Phân bố 8 tỉnh theo trục này bắt đầu là tỉnh Hà Bắc, Hà Nam nằm trên trục, Sơn Đông, Sơn Tây đối xứng với trục. Kế tiếp trên trục là Hồ Bắc, Hồ Nam; Quảng Đông, Quảng Tây nằm đối xứng với trục. (hình II.9)

Bên phải trục là các tỉnh: Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, An Huy, Giang Tây và thành phố Thượng Hải trực thuộc trung ương. Bên trái trục Thiểm Tây, Quý Châu, Cam Túc. Thanh Hải, Tứ Xuyên, Vân Nam và thành phố Trùng Khánh trực thuôc trung ương. Ba tỉnh còn lại ở phía bắc và các khu tự trị rất ít liên quan đến việc nghiên cứu của chúng ta.

Kết luận
Dù các phương pháp nghiên cứu hiện đại có phát triển đến đâu, điều cốt yếu vẫn là làm sao khơi gợi được niềm yêu thích và hứng thú tìm hiểu lịch sử; từ lịch sử dân tộc đến lịch sử của từng dòng họ (trong bài viết này, tác giả lấy trường hợp họ Hồ làm ví dụ minh họa).
Trong khuôn khổ nghiên cứu, tác giả đã cố gắng hệ thống hóa tiến trình lịch sử Việt Nam thông qua những “lát cắt” về thời gian và không gian, đồng thời đối chiếu song song với bối cảnh lịch sử Trung Quốc cùng thời. Cách tiếp cận này nhằm giúp người đọc dễ dàng ghi nhớ các mốc thời gian quan trọng, các triều đại đã từng tồn tại, cũng như những sự kiện trọng đại diễn ra trong từng giai đoạn lịch sử tương ứng.
Tác giả hy vọng rằng công trình “Lịch sử Việt Nam qua các lát cắt và một số vấn đề còn tranh luận về họ Hồ” sẽ góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu lịch sử Việt Nam nói chung, cũng như lịch sử họ Hồ nói riêng; đồng thời gợi mở thêm những góc nhìn mới, khách quan và khoa học hơn đối với những vấn đề còn nhiều tranh luận trong quá trình biên soạn, nghiên cứu sử họ, qua đó góp phần làm sáng tỏ tiến trình lịch sử dân tộc, đặt con người, sự kiện đúng theo tiến trình lịch sử đã diễn ra. “Hiểu biết lịch sử là để sống tốt hơn, để biết trân trọng những giá trị của quá khứ và có trách nhiệm với tương lai”- Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Tài liệu tham khảo
Tư liệu cổ/ sử liệu biên niên
- Ngô Sĩ Liên. (1993). Đại Việt sử ký toàn thư (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam dịch và hiệu đính). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
(Bản gốc biên soạn thế kỷ XV; trích dẫn theo ấn bản hiện đại).
Bài viết/ bài báo khoa học trong bản thảo
- Nguyễn Bê. (2018). Thời gian và không gian trong lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu Lịch sử. (Được trích từ nguồn trực tuyến; không có số tập và trang.)
Sách học thuật tiếng Anh
- Taylor, K. W. (1983). The birth of Vietnam. University of California Press.
- Karnow, S. (1984). Vietnam: A history. Penguin Books.
Sách kinh điển tiếng Việt
- Trần Trọng Kim. (1971). Việt Nam sử lược Bộ Giáo dục VNCH và USAID xuất bản.
- Nguyễn Khắc Thuần. (2008). Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam (Tập 1–3). Nhà xuất bản Giáo dục.
- Nhóm tác giả Nghiên cứu lịch sử họ Hồ. (2019). Một hướng tiếp cận Lịch sử họ Hồ Việt Nam
Nguồn bản đồ/ dữ liệu trực tuyến
- Wikimedia Commons. (n.d.). Atlas of Vietnam [Tập bản đồ trực tuyến].
https://commons.wikimedia.org/wiki/Atlas_of_Vietnam - (n.d.). Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ.
https://vi.wikipedia.org/wiki/ Lãnh_thổ_Việt_Nam_qua_từng_thời_kỳ - https://lichsunuocvietnam.com/ban-do-lanh-tho-viet-nam-qua-cac-thoi-ky-phan1/
- https://lichsunuocvietnam.com/ban-do-lanh-tho-viet-nam-qua-cac-thoi-ky-phan2/
- https://lichsunuocvietnam.com/ban-do-lanh-tho-viet-nam-qua-cac-thoi-ky-phan3/
Bộ lịch sử tổng hợp hiện đại Việt Nam và họ Hồ Việt Nam
- Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. (2013–2015). Lịch sử Việt Nam (Bộ 15 tập). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
- https://vnuhcmpress.edu.vn/mot-huong-tiep-can-lich-su-ho-ho-viet-nam-sach-tham-khao-b40181.html
Bài viết về tiến trình mở cõi
- Nguyễn, T. (n.d.). Lịch sử Việt Nam: Tóm tắt quá trình mở cõi. Nghiên Cứu Lịch Sử.
https://nghiencuulichsu.com
Văn bản pháp lý - hành chính
- Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (2025). Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 khóa XIII về sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
https://www.moha.gov.vn hoặc nguồn báo chí công bố nghị quyết.
Tư liệu hình ảnh bổ trợ
- Facebook – Lịch sử nước Việt Nam. (n.d.). Album bản đồ lịch sử Việt Nam [Bộ ảnh].
https://www.facebook.com/nclspage
Tài liệu học thuật bổ sung (gợi ý dùng khi mở rộng nghiên cứu)
- Lieberman, V. (2003). Strange parallels: Southeast Asia in global context, c. 800–1830 (Vol. 1). Cambridge University Press.








