
NCS-ThS Hồ Minh Châu
Hồ Hưng Dật: vai trò lịch sử và ý nghĩa khai tổ
Hồ Hưng Dật (胡興逸, 907–?), người gốc huyện Vũ Lâm, Chiết Giang (Ngô Việt xưa), được sử sách ghi nhận là Thái thú Diễn Châu dưới triều Nam Hán (Trung Quốc) vào đầu thế kỷ X. Địa hạt Châu Diễn khi đó bao gồm phần lớn Nghệ An, Hà Tĩnh và phía Nam Thanh Hóa ngày nay (Nguyễn, 2008, tr. 215). Trong vai trò quản hạt địa phương, ông chú trọng khai hoang lập ấp, phát triển sản xuất nông nghiệp; đồng thời, luyện quân, luyện võ, thiết lập trật tự hành chính và ổn định xã hội ở vùng biên viễn thời tiền Ngô (905–938), tức từ khi Khúc Thừa Dụ dựng quyền tự chủ cho đến trước chiến thắng Bạch Đằng. Đặc biệt, Hồ Hưng Dật được hậu duệ tôn xưng là vị khai tổ của họ Hồ Việt Nam, đồng thời là tổ đời thứ 13 của Hồ Quý Ly, vị vua sáng lập vương triều Hồ (1400–1407) trong lịch sử Việt Nam (Trần, 2014, tr. 57). Quá trình hình thành và phục dựng đền thờ Hồ Hưng Dật:
Khởi lập đầu thế kỷ XV
Năm Quý Mùi (1403), theo lệnh của Hồ Quý Ly, con trai là Hồ Hán Thương cho xây dựng đền thờ Tiên tổ trên đồi Thượng Đột, thôn Bào Đột, Châu Diễn (nay là xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An). Đền ban đầu được kiến thiết dạng miếu thờ quy mô lớn theo nguyên tắc kiến trúc cung đình lối, bố cục “nội công ngoại quốc”: tức là phần “nội” (các tòa điện thờ chính) có dạng chữ Công (工), được bao bọc bên ngoài bởi hệ thống hành lang, tường hoặc kiến trúc phụ tạo thành chữ Quốc (口). Kết cấu nhiều lớp không gian: Nghi môn, Bái đường, Trung điện, Thượng điện, kèm theo Tả vu, Hữu vu, gác chuông, gác trống (Phan, 2016).
Suy tàn và phục dựng hiện đại
Trải qua nhiều thế kỷ, chiến tranh và thiên tai đã khiến quần thể đền - miếu bị hủy hoại, gần như trở thành phế tích vào cuối thế kỷ XX. Năm 2005, Ban liên lạc họ Hồ Việt Nam báo cáo với chính quyền địa phương và kêu gọi con cháu nội ngoại họ Hồ khắp toàn quốc đóng góp kinh phí, tiến hành phục dựng trên nền miếu gốc. Quá trình khai quật đã phát hiện nhiều di vật kiến trúc có niên đại gần 600 năm như gạch hoa văn, mái đao, chân tảng đá. Từ năm 2006, đến năm 2025 công trình dần hoàn thiện các hạng mục, có đầy đủ cổng, tường bao, nhà bia và chính điện.…., trở thành từ đường chung của họ Hồ Việt Nam (Hội đồng Họ Hồ Việt Nam, 2007).
Công nhận và giá trị di tích
Ngày 12/12/2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng Đền thờ Hồ Hưng Dật là Di tích lịch sử – văn hóa cấp quốc gia, ghi nhận giá trị nổi bật về kiến trúc, lịch sử và văn hóa tâm linh. Lễ đón bằng diễn ra ngày 01/3/2015 với sự tham dự của Ban liên lạc Họ Hồ Việt Nam và chính quyền xã Ngọc Sơn (Bộ VH-TT&DL, 2014).
Đặc điểm kiến trúc và phong thủy
Kiến trúc đền hiện nay mang dáng dấp truyền thống, nổi bật với kết cấu gỗ lim, mái ngói âm dương, hệ thống vì kèo chồng diêm nhiều tầng. Họa tiết chạm khắc rồng, phượng, hoa lá trên hoành phi, cột gỗ thể hiện kỹ nghệ tinh xảo của kiến trúc cổ Việt Nam. Địa thế đền tọa trên dãy núi Y Sảo, tựa Hòn Rồng, Hòn Rết, phía trước hướng ra đồng bằng, tạo thế phong thủy “tọa sơn hướng thủy”, được coi là vị trí linh thiêng, bảo trợ sinh khí cho cộng đồng. Quá trình đầu tư, tôn tạo, phục dựng kéo dài gần ¼ thế kỷ đến nay công trình đã hoàn thành, gần như mô tả lại kiến trúc công trình xưa nhưng quy mô lớn hơn nhiều (Phạm, 2015).
Giá trị văn hóa và tín ngưỡng
Đền không chỉ là nơi phụng thờ tổ tiên họ Hồ mà còn là thiết chế tâm linh của cộng đồng cư dân địa phương. Hằng năm, hai kỳ lễ lớn được tổ chức: Xuân tế (10–11 tháng Giêng âm lịch) và Tế Tổ (25 tháng 3 âm lịch), quy tụ con cháu họ Hồ và khách thập phương trong và ngoài nước về dâng hương, tưởng niệm, cầu an. Các nghi lễ này phản ánh truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và góp phần duy trì tín ngưỡng thờ thần, thờ tổ phổ biến trong văn hóa Việt (Nguyễn & Lê, 2019).
Lễ hội và hoạt động văn hóa
- Lễ hội Đền Vua Hồ: Từ thế kỷ XV, diễn ra vào tiết tháng Ba âm lịch, có quy mô đại lễ ba năm một lần. Ngày nay, được rút gọn vào 25/3 âm lịch, do Hội đồng Họ Hồ Việt Nam tổ chức.
- Xuân tế: Diễn ra ngày 10–11 tháng Giêng, mở đầu năm mới, có lễ chào cờ, dâng hương và các hoạt động cộng đồng.
- Giỗ Đức Nguyên Tổ: Tổ chức ngày 25/3 âm lịch, gồm lễ chào cờ, thượng kỳ họ Hồ, hát Quốc ca – Họ ca, dâng hương.
- Giỗ Thanh Minh: Từ 12–15 tháng 3 âm lịch, gắn với tục tảo mộ và dâng hương tưởng niệm.
- Cúng Rằm tháng Bảy: Lễ Vu lan báo hiếu, Xá tội vong nhân.
- Khánh thành Lăng mộ (2022): Công trình hoàn tất với hơn 200 bậc đá, nhà bia và cảnh quan, trở thành nơi hành lễ quan trọng hằng năm (Hội đồng Họ Hồ Việt Nam, 2022).
Kết luận
Đền thờ Hồ Hưng Dật là một trong những di tích tiêu biểu của Nghệ An, quy mô công trình có tầm vóc toàn quốc, vừa gắn với nhân vật lịch sử, văn hóa có thật, vừa phản ánh truyền thống thờ tổ tiên, thờ thành hoàng làng của người Việt. Việc được công nhận là Di tích lịch sử, văn hóa quốc gia (2014) không chỉ khẳng định giá trị của di tích trong tiến trình lịch sử dân tộc mà còn góp phần bảo tồn bản sắc văn hóa họ Hồ và cộng đồng địa phương.
Tài liệu tham khảo
- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2014). Quyết định xếp hạng Đền thờ Hồ Hưng Dật là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia. Hà Nội.
- Hội đồng Họ Hồ Việt Nam (2007). Kỷ yếu Đại hội họ Hồ toàn quốc lần thứ I. Nghệ An.
- Hội đồng Họ Hồ Việt Nam (2022). Tư liệu lễ khánh thành Lăng mộ Hồ Hưng Dật. Nghệ An.
- Nguyễn, V. H. (2008). Lịch sử Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV. Nxb KHXH.
- Nguyễn, T. T., & Lê, V. P. (2019). Tín ngưỡng thờ tổ tiên trong văn hóa Việt. Nxb Văn hóa Dân tộc.
- Phạm, Q. C. (2015). “Phong thủy và địa thế các đền thờ ở Nghệ An”. Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa, số 3, tr. 45–60.
- Phan, K. (2016). Kiến trúc cổ truyền Việt Nam. Nxb Xây dựng.
- Trần, M. T. (2014). Nhà Hồ và những biến động lịch sử đầu thế kỷ XV. Nxb Thanh Niên.